ĐIỀU ĐỘNG TRONG BÃO – SỐ 2
Khi điều
động tàu trong điều kiện bão điều quan trọng nhất là lựa chọn hướng đi và vận tốc
tàu . Vận tốc tàu trong vùng biển động
luôn luôn bé hơn vận tốc của tàu trong vùng nước tĩnh , vì vậy nó sẽ :
1. Làm tăng
lực cản chuyển động , gây áp lực lên vỏ tàu , sinh ra hiện tượng đảo lái.
2. Làm giảm
hiệu suất của chân vịt
3. Tăng tốc
chân vịt đột ngột
4. Tàu rất dễ
bị va đập và ngập mặt sàn .
1.
Lực cản chuyển động do thay đổi góc trôi ( tăng
lên) và đảo chân vịt .
2.
Tăng đường đi của tàu.
3.
Thay đổi chế độ hoạt động của chân vịt.
4.
Gia tăng mức tiêu thụ nhiên liệu .
Cưỡi sóng (Слеминг) xảy ra trong lúc tàu lắc dọc do đỉnh
sóng đánh vào đáy tàu . Khả năng đánh vào đáy tàu càng cao , thì độ cao sóng và
vận tốc tàu càng lớn . Không chỉ có mũi tàu mà lái tàu cũng có thể bị nhấc lên
( chạy gối sóng tham khảo phần dưới). Để tránh hiện tượng trên cần giảm tốc độ
tàu hoặc tăng độ mớn nước ở mũi hoặc lái.
Nhấc mũi
tàu -Днищевой слеминг
Sóng dập gây tổn hại mũi tàu và ngập sàn (Удары волн в развал носа и заливание палубы) . Có thể phòng tránh bằng cách giảm vận tốc tàu hoặc giảm độ mớn nước mũi .
Mũi tàu vỡ
do va đập sóng
Chạy gối sóng và chạy xuôi sóng
Khi tàu chạy tới , nếu chiều dài của tàu nhỏ
hơn bước sóng , thì mũi tàu sẽ gặp đỉnh sóng và bị đỉnh sóng nâng lên , sau
đó đỉnh sóng sẽ tiếp tục di chuyển về phía đuôi tàu , cũng đỉnh sóng đó sẽ nâng
đuôi tàu lên cao và đẩy mũi tàu về phía đáy sóng ( tàu chúc mũi xuống) , sau đó
mũi tàu lại đón đỉnh sóng tiếp theo vì vậy mà tàu liên tục bi bổ và chúi.
Tàu chúi
xuống và gặp sóng tiếp theo
Nếu chiều dài của tàu bằng bước sóng , thân
tàu nằm trên hai đỉnh sóng hoặc hai đáy song , sẽ phát sinh một trong hai trường
hợp sau đây :
a. TH1 , khi
một đỉnh sóng từ phía trước đến phía lái sẽ nâng lái tàu lên cao làm cho mũi
tàu chúi xuống dưới , vừa lúc đỉnh sóng tiếp theo đến khiến cho mũi tàu xuyên
vào trong lòng sóng , nước tràn lên boong , khiến ngập boong , trọng tài của
tàu tăng , làm suy giảm tính nổi của tàu .
b. TH2, khi mũi tàu và lái tàu cùng một lúc nằm
trên 2 đáy sóng , phần giữa tàu gối lên đỉnh sóng , tạo nên một lục bẻ xuống ở
hai phía mũi lái và lực nâng lên ở giữa làm cho mặt boong ở giữa tàu bị lực kéo
rất mạnh, còn ở giữa sống tàu thì chịu lực nén dữ dội . Ngược lại khi mũi tàu
và lái tàu nằm trên hai đỉnh sóng , thì thân tàu bị một lực rất mạnh tác động từ
trên xuống làm cho mặt boong giữa bị một lực nén mạnh , còn sống tàu thì lại chịu
một lực kéo . Nếu tàu ở lâu dài trong trạng tháu đó thì thân tàu sẽ bị biến dạng
, kết cấu bị tổn thất và có khi rạn nứt.
Mũi và
lái trên 2 đỉnh sóng -> ở giữa bị nén
mạnh
Nếu thân
tàu dài hơn bước sóng thì tàu cùng một lúc trườn trên hai đỉnh sóng , lắc dọc của
thân tàu sẽ giảm đi rất nhiêu , thì lực
tác dụng lên tầu cũng sẽ giảm nhỏ.
Khi chạy
xuôi sóng cần chú ý mối quan hệ giữa chiều
dài của tàu với bước sóng cũng như tỷ lệ giữa tốc độ tàu với tốc độ của sóng.
Khi tốc độ sóng lớn hơn tốc độ tàu trong khi tàu đang nằm trên đáy sóng, sóng sẽ
va đập vào lái tàu làm cho phía lái tàu tràn nước , đôi khi chân vịt và trục của
nó chịu tổn thất nghiêm trọng , khi tốc độ tàu gần bằng tốc độ sóng mà tàu nằm
trên mặt trước của sóng hoặc đáy sóng thì tàu rất dễ bị lệch hướng ,sóng gió tác dụng vào một bên mạn tàu làm
cho tàu bị nghiêng, nước tràn lên mặt boong gây bất lợi cho hành trình . Khí bước
sóng lớn hơn hoặc nhỏ hơn chiều dài của tàu thì tàu chạy tương đối ổn định.
Để tránh tình trạng trên , khi chạy xuôi sóng
thường áp dụng giải pháp điều chỉnh tốc độ của tàu sao cho tốc độ của tàu hơi lớn
hơn với tốc độ của sóng để giữ hiệu quả của bánh lái , giữ hướng ổn định , giảm
bớt lực va đập của sóng vào thân tàu.
Chạy ngang sóng (α=90độ-phía phải hoặc 270độ-phía
trái).
Khi hướng đi của tàu lại vuông góc với hướng
hi chuyển của sóng gọi là chạy ngang sóng , sóng đến từ phía ngang hông tàu , từng
đỉnh sóng chạy từ mạn này của tàu sáng mạn bên kia làm tàu bị lắc ngang.
Lắc ngang
của tàu quan hệ đốn ổn tính của nói , một con tàu có ổn tính lớn thì moment hồi
phục lớn , tàu sẽ lắc nhanh , tức là chu kỳ lắc ngắn , như vậy tàu sẽ chịu chấn
động lớn và gây khó khăn cho con người trên tàu .
Ngược lại
với mỗi con tàu có ổn tính nhỏ thì moment hồi phục nhỏ , chu kỳ lắc dài và tàu
lắc chậm, con người cảm thấy dễ chịu. Tuy nhiên ở trường hợp thứ hai , vì chu kỳ
lắc chậm nên khi tàu chưa kịp hồi phục trở về vị trí cân bằng thì có thể bị đỉnh
sóng tiếp theo đập vào mạn làm cho tàu thêm nghiêng.
Nếu chu kỳ
lắc của tàu vừa đúng bằng chu kỳ sóng biển sẽ sinh ra hiện tượng cộng hưởng làm
cho tàu càng lắc dữ dội , có nguy cơ làm cho tàu bị nghiêng đổ . Cho nên ổn tỉnh
của tàu và chu kỳ lắc phải được tính toán hợp lý.
Khi tàu bị sóng đánh ngang nên dùng lái và
máy điều chỉnh hướng đi sao cho sóng chếch bên phải hay bên trái mạn một góc nhất
định.
Sóng đánh ngang tàu làm mất ổn tính .
Tài liệu tham khảo : sổ tay hàng hải , Управление суднa
Tác giả: Nguyễn Hải Khánh
Đăng nhận xét